gày 17/2/2022, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới đã
tổ chức buổi tọa đàm khoa học với chủ đề: “Ukraine trong chiến lược của các nước
lớn và tác động”. Tiến sỹ Hoàng Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện trưởng Viện Kinh
tế và Chính trị thế giới, Chủ trì buổi
tọa đàm. Tham dự buổi tọa đàm có TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, TS. Phí Vĩnh Tường, Quyền Viện trưởng Viện Kinh tế và
Chính trị thế giới và một số chuyên gia, các nhà khoa học hàng đầu về các vấn
đề chính trị và an ninh quốc tế.
Trình bày báo cáo đề dẫn
về tình hình căng thẳng giữa Nga và Ukraine cho đến trước ngày 17/02/2022, TS.
Hoàng Thế Anh khái quát quan hệ giữa hai nước từ khi Nga tái sáp nhập bán đảo
Crimea vào Nga năm 2014 trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc
hiện nay. Báo cáo nhấn mạnh tình trạng căng thẳng này không chỉ liên quan đến
tình hình nội bộ giữa hai nước, mà còn liên quan đến khác biệt về chiến lược,
quan điểm, chính sách, lợi ích
của một số nước lớn, có nguy cơ đe dọa hòa bình, ổn định ở Ukraine và châu Âu.
Những căng thẳng ở Ukraine hiện nay đang tiềm ẩn nguy cơ xung đột quân sự và
tác động đến thế giới, khu vực và Việt Nam. Báo cáo đưa ra một số nội dung để tập
trung thảo luận.
Một là, mục tiêu, chiến lược
của các nước lớn như Nga, Trung Quốc, Mỹ và các nước phương Tây trong vấn đề
Ukraine.
Hai là, tác động của những
căng thẳng Ukraine đến thế giới, khu vực và Việt Nam, tới chiến lược của các nước
lớn đối với các vấn đề tiềm ẩn nguy cơ xung đột như vấn đề Đài Loan, Triều
Tiên, biển Hoa Đông, biển Đông…
Ba là, đề xuất những kiến nghị đối với Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ với
các nước lớn, các nước trong khu vực và ứng phó trước những tác động mà vấn đề
khủng hoảng Ukraine mang lại.
Mở đầu phần thảo luận, PGS. TS. Lê Văn
Cương, Thiếu tướng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an điểm lại lịch
sử quan hệ Nga - Ukraine và trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Người Nga và người
nói tiếng Nga chiếm khoảng 20%, hầu hết sinh sống tại mười tỉnh phía đông,
trong đó có hai tỉnh Donetsk và Luhansk.
Cho tới thời kỳ Liên Xô, bán
đảo Crimea vẫn là một phần của lãnh thổ Liên bang Nga sau khi được Sa hoàng sáp
nhập vào lãnh thổ Đế chế Nga năm 1783. Năm 1954, Đoàn chủ tịch
Xô viết Tối cao của Liên Xô ban hành sắc lệnh trao tặng tỉnh Crimea cho Ukraine, khi đó là nước cộng hòa thuộc Liên Xô, như một “món quà”, nhân kỷ niệm
300 năm Ukraine trở thành một phần của Đế quốc Nga. Quyết định này được xem là vi hiến vào thời điểm đó
khi nó không được thảo luận và thông qua tại Xô-viết Tối cao Liên bang, và cho
tới nay vẫn gây ra nhiều tranh cãi.
Do vị trí địa lý nằm giữa Nga và các nước Tây Âu, cả lịch sử và hiện đại,
Ukraine luôn phải cân bằng giữa hai thế lực trên, song cũng không thể tách rời
khỏi Nga.
Cùng nhận định trên, GS. TS. Hoàng Khắc Nam, Khoa
Quốc tế học, Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà
Nội) bổ sung, bán đảo Crimea luôn nằm trong chiến lược biển của Nga để vươn ra
thế giới. Từ cuối thế kỷ XVII, nước Nga mới có thể tiến sang châu Âu nhờ Sa
hoàng khai thông hai con đường biển chiến lược qua biển Baltic và biển Đen sau
khi chiến thắng trong các cuộc chiến tranh với hai đế quốc hùng mạnh khi đó là
Thụy Điển và Ottoman. Chính vì vậy, việc sáp nhập và giành quyền kiểm soát bán
đảo Crimea có ý nghĩa chiến lược đối với bảo vệ an ninh và phát triển kinh tế
của Nga từ lịch sử tới hiện tại.
Trở lại bối cảnh hiện nay, PGS. Lê Văn Cương cho
rằng, bản chất của tình hình căng thẳng hiện nay là mâu thuẫn giữa phương Tây
(bao gồm Mỹ, Tây Âu) và Nga trong việc đảm bảo an ninh của Nga và khu vực ảnh
hưởng của Nga thời kỳ hậu Xô-viết. Những căng thẳng hiện tại giữa Nga và
Ukraine là hệ quả tất yếu của mối đe dọa từ phía NATO khi tổ chức an ninh quân
sự này mở rộng về phía Đông. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là việc sáp nhập bán đảo
Crimea vào Nga và hai tỉnh phía đông của Ukraine là Donetsk và Lugansk tuyên bố
ly khai, nơi đa số là người dân tộc Nga và người nói tiếng Nga sinh sống. Trên
trường quốc tế, Nga ngày càng có tiếng nói ảnh hưởng trước các vấn đề an ninh
quốc tế như cuộc xung đột tại Syria hay đàm phán hạt nhân của Iran. Cùng với
đó, quan hệ Nga - Trung Quốc trở nên chặt chẽ, nồng ấm hơn, trong khi Mỹ và các
thành viên NATO châu Âu lại có những mâu thuẫn, rạn nứt. Mới đây nhất, Tuyên bố
chung sau cuộc hội kiến giữa Tổng thống Nga V. Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình bên lề Thế vận hội mùa đông Bắc Kinh 2022 nêu rõ “quan hệ giữa hai nước là không giới hạn”, điều đó có nghĩa là hai
nước có thể tiến tới hình thành một liên minh. Đồng thời phía Trung Quốc công
khai bày tỏ lập trường ủng hộ Nga, phản đối phương Tây trong vấn Ukraine. Từ
sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, trật tự thế giới đã chuyển dịch từ đơn cực
sang đa cực với tam giác quyền lực Mỹ - Nga - Trung Quốc.
Các chuyên gia đã phân tích nhằm làm rõ mục tiêu, ý
đồ chiến lược của các nước lớn trong vấn đề Ukraine, nguyên nhân của tình hình
căng thẳng, thậm chí có thể dẫn tới xung đột quân sự. PGS. TSKH. Võ Đại Lược,
Tổng giám đốc Trung tâm nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương, nguyên Viện trưởng
Viện kinh tế và Chính trị thế giới nêu ra ba nguyên nhân cơ bản: Một là, về dài hạn, lập trường kiên
quyết của Nga yêu cầu NATO phải đảm an ninh của Nga và khu vực không gian hậu
Xô-viết, không được kết nạp Ukraine vào NATO cũng như vào Liên minh châu Âu
(EU). Việc phương Tây sử dụng Ukraine như một công cụ để đối đầu Nga là một mối
đe dọa rất nghiêm trọng, Nga không thể chấp nhận được. Nga cần một sự đảm bảo
duy trì Ukraine là một quốc gia láng giềng thân thiện, hợp tác và trung lập.
Nga cũng đưa ra đề xuất đảm bảo an ninh cân bằng cho cả Nga và châu Âu, nhưng
Mỹ và NATO đã bác bỏ. Với sức mạnh quân sự và tiềm lực kinh tế, trong đó có giá
dầu đang ở mức cao - nhiên liệu mà châu Âu đang phụ thuộc vào nguồn cung từ
phía Nga - cho phép Nga có ưu thế trước những mối đe dọa trừng phạt của phương
Tây; Hai là, Chính phủ mới thân
phương Tây của Ukraine công khai thúc đẩy tiến trình gia nhập NATO và EU sau
cải cách Hiến pháp năm 2019 và được nhiều thành viên chủ chốt của NATO và Mỹ
ủng hộ mạnh mẽ,
bỏ qua lằn ranh đỏ do Nga đặt ra trong quan hệ Nga và phương Tây; Ba là, cơ chế quản trị an ninh toàn cầu
suy giảm trong hai thập niên vừa qua, đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008, gần đây nhất là những phản ứng, xử lý cuộc khủng hoảng tại
Syria và đại dịch Covid-19.
Một nguyên nhân nữa là do nền
kinh tế thế giới trong hơn một thập kỷ qua không ổn định, nên các tập đoàn công
nghiệp quân sự phương Tây cổ vũ cho những xung đột tại các điểm nóng trên nhằm kích cầu và thu lợi nhuận. Thế giới sẽ còn
diễn ra những điểm xung đột nóng mới chừng nào những tổ hợp này còn thu về
những khoản lợi nhuận khổng lồ (PGS. TSKH. Võ Đại Lược, PGS. TS. Nguyễn Anh
Tuấn, Học viện Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Ukraine).
Ông Phạm Hồng Tiến đưa ra nhận định:
- Mỹ đang sử dụng Ukraine như một phép thử trong tập
hợp lại lực lượng sau một thời gian các đồng minh truyền thống của mình bị chia
rẽ dưới thời Tổng thống tiền nhiệm D. Trump, đồng thời thử thách vai trò của
những đồng minh mới từ các nước Đông Âu;
Thông qua đối đầu với Nga, Mỹ muốn đánh giá mức độ và quy mô quan hệ Nga
- Trung Quốc, là hai cường quốc lớn nhất thách thức vị trí số một của Mỹ;
-
Về phía Nga và Trung Quốc, trong
khi Nga muốn kiểm nghiệm quan hệ chiến lược toàn diện từ người láng giềng khổng
lồ phía nam thì Trung Quốc đang lặng lẽ quan sát nhằm tìm kiếm những cơ hội cho
chiến lược nâng tầm vị thế của mình. Mặt khác, có thể nước này sẽ đánh giá những
hệ quả từ hai điểm xung đột chính nói trên nhằm rút ra những kết luận quan
trọng phục vụ cho tham vọng về chủ quyền và lãnh thổ của riêng mình.
-
Các nước Tây Âu trong khi vẫn duy
trì là những đồng minh gần gũi của Mỹ, thì muốn nhân cơ hội này để thử thách
quan hệ đồng minh của riêng mình là Đức và Pháp sau khi nước Anh rời khỏi EU.
Nhận định về tác động của khủng hoảng tới cục diện
thế giới và khu vực, nhiều ý kiến cho rằng sau sự kiện này thế giới sẽ hình
thành một cấu trúc mới của trật tự an ninh trong giai đoạn mới, trong đó sẽ có
sự phân định giới tuyến rõ ràng hơn giữa một bên là Mỹ và Tây Âu với bên kia là
Nga và Trung Quốc (Lê Văn Cương, Trần Khánh, Phạm Hồng Tiến, Nguyễn Trường
Giang). Ngược lại, TS. Lê Đình Tĩnh cho rằng sự kiện này chưa thể làm thay đổi
bản chất của hệ thống an ninh quốc tế cũng như chưa làm thay đổi tương quan lực
lượng giữa các chủ thể trong cấu trúc hiện tại. Đại tá Lê Thế Mẫu, chuyên gia
về chính trị - an ninh thế giới, thì cho rằng đây là bước ngoặt để chấm dứt đối
đầu giữa Nga và Ukraine, với việc Ukraine sẽ trở lại quỹ đạo ảnh hưởng của Nga,
hoặc ít nhất là từ bỏ mục tiêu gia nhập NATO trong trung hạn.
Đối với khu vực, cơ bản các ý kiến cho rằng sự kiện
sẽ làm củng cố quan hệ xuyên Đại Tây Dương giữa các thành viên NATO châu Âu với
Mỹ. Mỹ đã đạt được một số kết quả trong việc lấy lại niềm tin của cử tri Mỹ về
chính sách đối ngoại sau thất bại ở cuộc chiến Afganistan hay vai trò mờ nhạt
trong xung đột ở Syria. Nước Đức theo đường lối thực dụng đã có được ảnh hưởng
mới trong EU, củng cố một bước an ninh năng lượng của mình qua các ứng xử mềm
dẻo trong khủng hoảng và với Nga.
Tác động của cuộc khủng hoảng
này tới kinh tế Việt Nam, các chuyên gia cho rằng tình hình hiện nay sẽ tác động đến giá dầu trong ngắn hạn, với
biến động theo chiều hướng bất lợi, ảnh hưởng tới quá trình phục hồi kinh tế
của Việt Nam trong bối cảnh phải khắc phục sự suy giảm do đại dịch Covid-19.
Bên cạnh đó, thương mại giữa Việt Nam với Nga và Ukraine sẽ bị ảnh hưởng, nhất
là đối với các doanh nghiệp có liên quan. Cùng với đó, Việt Nam cần chuẩn bị những
phương án ứng phó trước những biện pháp cấm vận và phong tỏa thương mại của một
số quốc gia đối với Nga.
Về chính trị an ninh, các nhận định đều cho rằng vấn
đề sáp nhập Crimea và hành động của Nga tại khu vực ly khai của Ukraine và việc
xích lại gần nhau hơn trong quan hệ Nga - Trung Quốc sẽ có tác động tới an ninh
tại một số điểm nóng trong khu vực như vấn đề Đài Loan và chủ quyền trên biển
Đông.
Trên cơ sở những phân tích chủ đề của Tọa đàm, các
nhà khoa học đã nêu ra một số khuyến nghị về lập trường và những ứng phó của
Việt Nam trước tình hình leo thăng căng thẳng hiện nay tại Ukraine:
Thứ nhất, Việt Nam cần kiên trì lập trường
chiến lược bốn không: Không tham gia liên minh
quân sự; Không liên kết với nước này để chống nước kia; Không cho nước ngoài
đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; Không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đồng thời ủng
hộ các quy tắc trong quan hệ quốc tế, tôn trọng các công ước quốc tế về chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp bằng các biện
pháp thông qua con đường ngoại giao và đối thoại.
Thứ hai, trong trường
hợp xảy ra xung đột quân sự, các bên liên quan cần bảo vệ tính mạng, tài sản
của thường dân và các cơ cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đây là vấn đề mà Việt Nam đã
đệ trình và được thảo luận tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và nhận được sự ủng
hộ của đa số các quốc gia thành viên.
Thứ ba, cần suy nghĩ
nghiêm túc vấn đề Ukraine trong bối cảnh an ninh quốc tế và khu vực để có thể
có những ứng phó trong chính sách đối ngoại phù hợp. Nga hiện là đối tác chiến
lược của Việt Nam, song cũng không thể coi nhẹ vị trí của Ukraine trong quan hệ
song phương. Vai trò của các chuyên gia quân sự Ukraine từng đã rất quan trọng
trong đào tạo và sử dụng khí tài quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cũng như hiện nay (GS. TS. Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó Viện trưởng
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng).
Thứ tư, cần cảnh giác
trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, có chính sách ứng phó phù hợp với những
nước hiện áp đặt những tham vọng không có cơ sở pháp lý về chủ quyền tại những
khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông, đồng thời cảnh giác với nguy cơ các thế lực bên ngoài kích động các hoạt
động đòi ly khai ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc
và phía Tây Nam của Tổ quốc. TS. Lê Đình Tĩnh
một lần nữa nhấn mạnh “hiện vẫn tồn tại
xu hướng sử dụng vũ lực, bỏ qua các nguyên tắc và các định chế quốc tế, để giải
quyết các tranh chấp lãnh thổ, nhất là đối với các cường quốc mới nổi”.
Kết
thúc buổi tọa đàm, TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam phát biểu ý kiến mang tính tổng kết, đánh giá cao kết quả thực
chất và kịp thời của Tọa đàm. Những kết luận chính là:
-
Buổi tọa đàm đã định vị được tầm
quan trọng của vấn đề Ukraine tới cục diện chính trị - an ninh quốc tế tế hiện
nay; Khẳng
định Ukraine là ranh giới địa chính trị giữa Nga - Tây Âu và Mỹ;
-
Xét về cục diện và xu hướng hiện nay, vẫn không loại
trừ khả năng các nước lớn sử dụng vũ lực quy mô nhất định để giải quyết vấn đề
an ninh của mình;
-
Đã có những phân tích, nhận định xác đáng quan điểm
của Trung Quốc trong vấn đề Ukraine, trong đó đáng chú ý là Chính phủ nước này
đã lựa chọn đứng về phía đối tác mà Trung Quốc có lợi ích lớn hơn;
Tuy mới chỉ là những đánh giá bước đầu, nhưng
buổi tọa đàm cũng gợi ý cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách có
những suy nghĩ và định hướng nghiêm túc. Sự kiện này cũng mang lại những bài học có giá
trị cho Việt Nam trong xử lý quan hệ với các cường quốc trong khu vực và trên
thế giới♦
Đào Việt Hưng
Tổng hợp